HIỆN TƯỢNG VÔ CẢM TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI - VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC ĐẶT RA NGHIÊN CỨU NGHIÊM TÚC

Mô tả chi tiết

HIỆN TƯỢNG VÔ CẢM TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

- VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC ĐẶT RA NGHIÊN CỨU NGHIÊM TÚC

 

                     TSKH. Trịnh Thị Kim Ngọc

                     Viện Nghiên cứu Con người,  Viện Hàn Lâm KHXH  Việt Nam

          Abstract

           The human insensitivity is a human desease - the psychophysical (mental) and social (disease of the mind and the soul). Last years, in Vietnamese society increased wide discussions on social insensitivity as a big barrier for sustainable development, in general, and human development, in particular. But it seems that, the problem still has not been properly addressed with it urgency on the both sides - theoretical and practical. Before this project of the Institute of Human studies, the phenomenon Human insensitivity as a scientific concept has not been mentioned in no more other works in Viet Nam, the definition of this concept has not been explained in the diferent dictionary. While the social impact of insensitivity to community is not only potential risks, it warned a new challenge in preserving and promoting the traditional values ​​of Vietnamese Nation, as in thi building a healthy spiritual foundation of our society. That, thinking and acting together for "a society without indifference" has become an urgent requirement.

Từ khóa: Vô cảm (insensitivity), tác động xã hội (Social impact), nền tảng tinh thần (spiritual foundation), thách thức (challenge), phát triển (development)

I. Đặt vấn đề

         Chưa bao giờ, hiện tượng “vô cảm” và những thách thức của nó đối với xã hội ta lại trở nên đáng quan tâm như hiện nay. Chúng ta có thể gặp từ “vô cảm” hàng ngày trên các trang báo, trên nhiều chương trình truyền hình, cũng như trên các diễn đàn tranh luận của giới trẻ.... Là người quan tâm đến những vấn đề của con người và văn hóa, chúng tôi dễ cảm thông hơn với cộng đồng trước những bức xúc hiện nay. Nhất là trong xã hội ta, nơi mà “tính cộng đồng” và tinh thần “tương thân tương ái” đã trở thành cốt cách của dân tộc, thì thái độ vô cảm dường như lại là một trong những biểu hiện của sự lệch chuẩn với những giá trị truyền thống đó. Thêm nữa, trên nhiều diễn đàn xã hội, vấn đề xã hội phức tạp này dường như chưa được đặt ra đúng với tầm cấp thiết của nó. Trước chiều hướng gia tăng của các hệ lụy xã hội có nguyên nhân từ “vô cảm” và những tranh cãi về bản chất khái niệm như vừa nêu trên, đề tài khoa học: Hiện tượng vô cảm trong xã hội Việt Nam hiện đại và những thách thức đối với với phát triển con người được Viện Nghiên cứu Con người đề xuất và đã được Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho phép triển khai nghiên cứu trong giai đoạn 2013-2014 hiện nay.

II. Kết quả nghiên cứu

        Trong khoa học xã hội Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các giá trị truyền thống và hiện đại, về tính cá nhân và tính cộng đồng, hay về các xu hướng văn hóa đang diển ra theo nhiều chiều trong xã hội hiện nay.... Tuy nhiên, “vô cảm” với tư cách là một khái niệm khoa học với những hệ lụy xã hội của nó chưa được xác định ở bất cứ một cuốn từ điển xã hội học hay chính trị học nào... Lần đầu tiên, bản chất của khái niệm vô cảm được đặt ra nghiên cứu trong công trình này. Bằng tiếp cận liên ngành: 1) tiếp cận về tâm vật lý học (Psychophysical approach); 2) tiếp cận tâm lý học xã hội (Socio-pchychological approach); 3) Tiếp cận văn hóa học (Cultural studies approach); và 4) tiếp cận khoa học quản lý (Managemental science)....  nhóm nghiên cứu đã vận dụng các lý thuyết cơ bản nêu trên để làm rõ bản chất của hiện tượng “vô cảm”, xác định rõ những cảnh báo xã hội có nguyên nhân từ xu hướng tâm lý xã hội này, đồng thời chỉ ra các giải pháp bước đầu hạn chế những tác động của những hệ lụy cực đoan của nó đối với sự lành mạnh xã hội. Công trình đã có một số kết quả bước đầu về lý luận và thực tiễn sau đây: 

1. Về mặt lý luận

         Nghiên cứu cơ sở lý luận bước đầu của đề tài đã cho phép làm rõ lịch sử xuất hiện của thuật ngữ, bản chất và tính đa nghĩa của khái niệm vô cảm, cũng như các hệ lụy xã hội khó lường của nó, như sau:

1.1. Làm rõ về lịch sử xuất hiện và tính đa nghĩa của thuật ngữ

         Hiện nay “vô cảm” được xác định như một hiện tượng tâm lý, đang trở thành một xu hướng tâm lý xã hội của một bộ phậm giới trẻ hiện nay. Tuy nhiên, theo tiếp cận tâm vật lý học, nó lại chỉ trạng thái vô thức của con người. Ngay từ khi chưa có thuật ngữ vô cảm, người Ai cập, Trung Hoa và Ấn Độ cổ đại đã tìm được các loại thảo dược: cây thuốc phiện, lá coca, rễ mandrake, cà độc dược, hay cây thuốc hyoscyamus...., điều chế thành rượu để cho người bệnh dùng, nhằm xóa tan cảm giác đau đớn khi thực hiện các ca phẫu thuật. Sau này, trên cơ sở các thảo dược đó, các nhà y dược học tiền bối đã sản xuất các loại morphine. Và chỉ tới giữa TK. XX, khi gây mê - hồi sức chính thức được công nhận là một chuyên khoa độc lập của y học hiện đại, thì thuật ngữ vô cảm (trơ lì, không phản úng) với những tác động vật lý từ bên ngoài (Anaesthesia, insensitivity) cũng mới được khẳng định. Với nghĩa nêu trên, vô cảm trước hết được hiểu như một thuật ngữ y sinh học, nó chỉ một trạng thái tinh thần vô thức của con người, khi con người bị ức chế nhờ được sử dụng một số liệu pháp an thần..., họ trở nên mất tri giác về đau đớn (trơ lỳ với cảm giác đau) khi điều trị ngoại khoa[1].

         Trên cơ sở hiện tượng vô cảm y sinh nêu trên, các nhà y khoa thế kỷ XX đã tìm thấy hiện tượng vô cảm bẩm sinh với nhiệt độ và sự đau đớn thẻ xác (congenital insensitivity to pain and anhidrosis, CIPA) của một số người. Các nhà y khoa không cho đó là một khả năng đặc biệt của con người, mà xác định nó là một loại bệnh bẩm sinh hiếm gặp, liên quan đến hệ thần kinh ngoại vi, bởi vì nó được xuất phát từ hệ thống thần kinh ngoại biên, kết nối bộ não, cột sống và các cơ bắp, gây trơ lì tại các tế bào thần kinh cảm giác như sờ, ngửi, cảm nhận nhiệt độ và đau đớn....của con người. Những người mắc căn bệnh này, ngay từ khi sinh ra họ đã mất tri giác về nhiệt độ và các tác động vật lý từ bên ngoài vào cơ thể, họ có thể bị đánh, bị các vật sắc đâm vào hay bị bỏng..., nhưng không có cảm giác. Do đó, người bệnh rất dễ bị tổn thương và có thể dẫn tới tử vong. Vì vậy, các nhà y khoa luôn cảnh báo các bậc cha mẹ cần quan tâm đến sự phát triển khả năng tri nhận vật lý của trẻ em, ngay từ khi sinh ra, tránh những tổn thương đáng tiếc.

          Tuy nhiên, Con người - về bản chất - là một thực thể tự nhiên và xã hội [2], nên ý thức và tình cảm được xác định như những đặc trưng bản chất của loài người, được hình thành và tích lũy đồng thời cùng với sự xuất hiện của loài người với lịch sử tiến hóa hàng trăm triệu năm. Nhờ có tình cảm và ý thức trách nhiệm lẫn nhau, loài người đã vượt qua muôn ngàn hiểm nguy trong quá trình tiến hóa để trở thành con người nhân văn, hiện đại như ngày nay. Bên cạnh, căn bệnh vô cảm với nhiệt độ và sự đau đớn thể xác, con người cũng có thể mắc căn bệnh vô cảm về tinh thần, nếu như họ sống giữa cộng đồng, nhưng lại trở nên vô thức trước tất cả những gì đang diễn ra xung quanh họ, hoặc trở nên trơ lỳ về mặt tâm hồn trước những tác động của xã hội bên ngoài: thiếu trách nhiệm với cha mẹ và người thân, sự bàng quan trước những biến cố xã hội và những số phận kém may mắn, không sẵn lòng chia những tổn thất với bè bạn hay đồng loại, thậm chí không hề trắc ẩn trước việc làm tổn hại cho người khác của bản thân..... Các nhà y sinh học và tâm lý học xã hội gọi đó là bệnh vô cảm về tâm hồn hay bệnh vô cảm xã hội (Social insensitivity) - đây chính là chủ đề nghiên cứu trọng tậm trong công trình của chúng tôi.

2.2. Về bản chất và các hệ lụy xã hội của hiện tượng vô cảm 

          Những nghiên cứu về lý luận bước đầu cho thấy, hiện tượng vô cảm dù là vô cảm y sinh hay vô cảm xã hội đều là các đặc trưng phi bản chất của con người. Chúng ta được khẳng định ở sự tiến hóa vượt bậc hơn mọi loài khác trên hành tinh, bởi chính là nhờ Con người có tình cảm và trí tuệ. Giống như một thứ linh dược quý trong mỗi con người, tình cảm là sợi dây gắn kết giữa con người với con người trong cộng đồng, nhờ đó có thể hóa giải và cảm hóa được mọi thứ, cũng có thể đúc kết thành một nguồn lực xã hội to lớn để làm được những điều phi thường. Nhưng khi con người sống vô cảm, - tức không có “cái tình”, họ sẽ trở nên hung bạo và tàn nhẫn:  cha con, anh em trở nên thù oán lẫn nhau: vợ chồng trở nên bất hòa, li tán: bạn bè, đồng nghiệp vì bất đồng, mà có thể làm hại lẫn nhau… Tất cả là vì họ bàng quan, vô cảm và vô tình với thế giới xung quanh, họ không cảm nhận được cái hạnh phúc được sống trong thế giới tình cảm của Con người. Vì vậy, cũng có thể coi đó là một những khuyết tật của con người. Khi con người có khuyết tật của thần kinh ngoại vi,  người đó mắc căn bệnh vô cảm về thể chất; còn với các căn bệnh về xúc cảm và ý thức trách nhiệm, con người đang gặp những khuyết tật về tâm hồn (Moral defect).

         Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là những tác động xã hội của vô cảm, khi mỗi con người là một tế bào của xã hội. Khi con người mắc bệnh vô cảm y sinh, nguy cơ tổn thương về thể chất chỉ đe dọa cuộc sống của riêng người đó, có chăng sẽ gây sự đau đớn về tâm hồn cho những người thân khi người bệnh kia không thể chiến thắng được căn bệnh của chính mình. Trong trường hợp này, bản thân sự vô cảm y sinh không gây ra các hệ lụy xã hội từ các phản ứng nổi loạn, hay các hành động gây rối cho cộng đồng. Còn với căn bệnh vô cảm về tâm hồn, hiện tượng đang có thể trở thành một xu hướng tâm lý của một bộ phận trong giới trẻ, lại đang có những diễn biến phức tạp, trở thành nguyên nhân của nhiều vấn đề trong cuộc sống: thái độ bàng quan, ích kỷ, chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình, nên không ít bạn trẻ đã quên cả trách nhiệm với cha mẹ, người thân; trào lưu thích bạo lực, gây rối..., thích thể hiện “sức mạnh” và những điều kỳ cục, khác người....Với căn bệnh này, ở đâu chúng ta cũng thấy những hệ lụy không mong muốn.

         Trong gia đình, vì vô cảm và thiếu trách nhiệm lẫn nhau, biết bao nhiêu cặp vợ chồng khi li tán đã bỏ lại sau lưng mình những đứa con đáng thương cho các thành viên khác trong gia đình và cho xã hội; Còn cũng có những đứa con, cũng vì vô cảm với cha mẹ mà xúc phạm những bậc sinh thành nên mình, đẩy họ ra đường với những nỗi đau mà người già không thể chia sẻ cùng ai??? Liệu có thể chấp nhận được khi ngày càng nhiều hơn các trường hợp cha mẹ, anh em trở nên thù oán lẫn nhau, thậm chí giết hại lẫn nhau chỉ vì hơn kém vài mét đất....     

         Ngoài cộng đồng, chỉ vì một lý do nào đó không hợp với ý chí của mình, một bộ phận giới trẻ có thể dễ dàng dùng bạo lực để uy hiếp, khống chế, chiếm đoạt, thậm chí cả sát hại người khác...; chỉ vì theo đuổi lợi ích vật chất của riêng mình, một bộ phận người sản xuất đã tung ra cộng đồng những thực phẩm độc hại: từ rau, quả, đến thịt, cá và cả sữa cho trẻ thơ...; cũng vì căn bệnh này, không ít các doanh nghiệp sản xuất đã đẩy ra cộng đồng hàng ngàn tấn chất thải công nghiệp, phá hoại sản xuất, chăn nuôi và cả sức khỏe của người dân....;           

         Như vậy, hiện tượng vô cảm nêu trên giống như một cách “biểu hiện cực đoan của cái tôi” – “cái cá nhân”[3], nhưng không phải là “cái tôi” theo phương Đông hay phương Tây truyền thống - mà là “cái tôi vị kỷ”, hoàn toàn tách biệt với “cái ta” và “cái chúng ta”, mà hiện thân là tính cộng đồng “tương thân tương ái” tồn tại từ ngàn đời trong xã hội chúng ta. Thái độ vô cảm - dù là nhất thời, vẫn là biểu hiện của “sự mai một, của một đoạn đứt gãy” của những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đang đi ngược lại với những “chuẩn mực nhân văn” mà ông cha ta vẫn coi trọng, gìn giữ: “Tay đứt ruột sót”, “Thương người như thể thương thân”, hay “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”....

          Lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh, nhờ có tính cộng đồng sâu sắc và tinh thần xả thân vì nghĩa lớn, dân tộc ta đã bước ra khỏi gần 1.000 Bắc thuộc, đã chiến thắng được 2 đế quốc và thực dân hùng mạnh của thế giới, đã chiếm lĩnh được sự ủng hộ và niềm tin trong lòng bạn bè quốc tế, để vinh quang bước lên vũ đài lịch sử với một niềm tự hào sâu sắc về những “giá trị đích thực của Việt Nam”. Chính những giá trị quý báu này đã làm nên “nguồn vốn xã hội” to lón, giúp Việt Nam đã và sẽ vượt qua nhiều khó khăn, thách thức để hoàn thành công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước trở thành một quốc gia công nghiệp hùng cường và đem lại nhiều hơn phúc lợi xã hội cho mọi người dân trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.       

          Trong khi tính cộng đồng và ý thức tự tôn dân tộc đang là một nguồn động lực to lớn cho sự phát triển bền vững đất nước, thì thái độ vô cảm trong một bộ phận của giới trẻ lại đang là một rào cản đáng quan tâm trong xã hội ta. Vô cảm, bàng quan đang ngấm ngầm gậm nhấm nền tảng tinh thần của xã hội, nó không chỉ tạo nên một xu hướng lệch chuẩn về các giá trị đạo đức, mà mỗi gia đình hay cả cộng đồng đều cố gắng gìn giữ, phát huy. Vô cảm cũng đang công phá vào “vốn xã hội” quý báu của dân tộc ta, làm mai một đi niềm tin về sự nghiêm minh của pháp luật, về sự công tâm, mẫn cán của chính quyền, của các chủ trương nhân văn của Đảng và Nhà nước ta về mục tiêu của công cuộc đổi mới là vì sự phát triển của con người..... Một quốc gia có thể có một nền kinh tế lớn, nhưng khi có những biểu hiện suy thoái về văn hóa và nền tảng tinh thần của xã hội, thì quốc gia đó không thể có cơ hội để trở thành một cường quốc, bởi không thiếu tính bền vững trong sự hùng cường. Một trào lưu tâm lý xã hội như vô cảm lại có những hệ lụy khôn lường mà những kiến giải trên chỉ là một phần của tính vấn đề và sự cấp thiết.

2. Về mặt thực tiễn  

          Với tư cách là một hiện tượng xã hội, một xu hướng tâm lý xã hội đang diễn ra ở khắp mọi nơi, không thể nghiên cứu vô cảm trong thư viện hoặc phòng thực nghiệm. Đề tài đã tận dụng mọi cơ hội gặp gỡ, mọi diễn đàn, tính đến tất cả các ý kiến khác nhau trên các phương tiện thông tin truyền thông....., để làm rõ nhận thức xã hội về vô cảm, thực trạng và xu hướng diễn tiến của thái độ vô cảm trong xã hội Việt Nam của ngày hôm nay. 

2.1. Làm rõ tính cấp thiết của thực tiễn xã hội của đất nước  

          Nhiệm vụ khoa học này được thai nghén và đề xuất từ sự quan sát, tổng hợp và tích lũy nhiều nguồn tư liệu về những vấn đề của cuộc sống đương đại. Trước hết là việc nghiên cứu một số tư liệu được đăng tải trên các phương tiện truyền thông, qua đó cũng thấy rất rõ sự bức xúc của xã hội trước hiện tượng mà trên các trang mạng đều gọi là “bệnh vô cảm”.  

         Thứ nhất, vào năm 2010, Báo Điện tử VnExpress đã tiến hành một cuộc khảo sát rông rãi và được 17.256 độc giả tham gia thể hiện thái độ của mình khi chứng kiến học sinh đánh nhau (xem biểu đồ sau của vnexpress.com.vn cung cấp).


         Kết quả cho thấy, chỉ có 24,8% ý kiến độc giả đã chọn phương án can ngăn, gần 32,9% ý kiến cho biết sẽ báo cho người có trách nhiệm (nhưng cụ thể là ai không được nêu rõ), trong khi đó vẫn còn 15,1% ý kiến là chỉ đứng quan sát, hơn 23% ý kiến cho rằng bỏ đi coi như không biết và 4% là các ý kiến khác hoặc không biết trả lời. Một điều tra tình cờ của một tờ báo điện tử đã cho chúng ta thấy rõ một cảnh báo, vẫn còn tới 42% độc giả hầu hết là trẻ tuổi (bởi thông qua mạng internet) đã bàng quan trước một nhức nhối xã hội là nạn bạo lực học đường đang diễn ra khắp nơi, nhưng lại là nỗi lo lớn của các bậc cha mẹ, cô giáo về an ninh con người trong học sinh hiện nay.                                  

          Thứ hai, những người có ý tưởng của đề xuất này thử tìm kiến trên 12 trang tuần báo và nhật báo[4] trong tháng 2/2012 cho thấy có tới 433 thông tin về các vụ việc như: tai nạn, bạo lực, cướp bóc, giết người.... tại các địa điểm khác nhau trong cả nước, liên quan đến sự bàng quan, thiếu trách nhiệm..., của người dân; các thông tin có thêm phản ứng và bình luận là 135 tin; bản thân từ “vô cảm” được nhắc tới trong các bài bình luận dành riêng cho chủ đề này là 41 tin. Như vậy, tính trung bình mỗi ngày có khoảng gần 15 vụ việc được đưa tin trên báo liên quan đến sự vô cảm của con người đối với nhau và việc bình luận về điều này cũng đang được diễn ra hàng ngày trên các trang báo.

         Thứ ba, một hiện tượng không thể bỏ qua là bài văn nghị luận về Bệnh vô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 Trường THCS Chu Văn An, Hà Nội, đã để lại ấn tượng sâu sắc ở người đọc và đồng loạt đã được nhắc tới trên hàng trăm trang mạng xã hội kể cả tại những diễn đàn ở nước ngoài[5]. Đây cũng là một tiếng chuông cảnh báo về một nguy cơ xuống cấp về đạo đức và các chuẩn mực xã hội, đồng thời cũng thể hiện sự bức xúc và nỗi lo lắng của giới trẻ học đường hiện nay.

         Trước những diễn biến phức tạp của căn bệnh vô cảm, một số hội thảo về công tác xã hội đã được tổ chức tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cũng đã bàn về vấn đề này. Trong một số trường học cũng đã tổ chức các diễn đàn về trách nhiệm xã hội của giới trẻ. Tuy nhiên, tác động xã hội trong công tác ngăn chặn sự bùng phát của vô cảm vẫn còn chưa rõ rệt.

  2.2. Một số kết quả nhận được từ thực tiễn

          Để thực hiện nhiệm vụ này, đề tài đã triển khai nghiên cứu thông qua phỏng vấn sâu về nhận thức của cộng đồng với những phản ứng tâm lý ở 100 đối tượng là HS - SV tại 4 trường đại học và một số trường phổ thông tại 2 thành phố Huế và Hà Nội; thực hiện nhiều cuộc tọa đàm với các nhóm giáo viên và phụ huynh; tiến hành thảo luận và chia sẻ kinh nghiệm với 2 nhóm cán bộ lãnh đạo các cơ sở thuộc Đoàn TNCS HCM tại Hà Nội và các lãnh đạo Đoàn trên toàn quốc. Nhìn chung, công trình đã nhận được sự tham gia nhiệt thành của các bạn trẻ ở mọi nơi, ở đâu nhóm nghiên cứu đặt chân đến.

         Thứ nhất, hầu hết giới trẻ là HS-SV đều đã quan tâm tới hiện tượng vô cảm, đã nhận thức được bản chất và tác động không mong muốn của nó đối với xã hội (với 93/100 ý kiến). Nhiều ý kiến còn mạnh dạn gọi đó là bệnh xã hội như bệnh bằng cấp, bệnh hình thức, bệnh sính ngoại đã tạo nên nhiều “nạn xã hội” đáng quan tâm.... Số ý kiến thể hiện chưa nắm rõ khái niệm vô cảm và cũng khẳng định là khái niệm này còn khá xa lạ với cộng đồng, chủ yếu lại là ý kiến của một số em học sinh phổ thông từ các vùng ven thành phố Huế, nơi tính cộng đồng còn đang được gìn giữ và phát huy tác dụng.

         Thứ hai, hầu hết ý kiến khác cũng cho rằng (với 99/100 ý kiến): vô cảm là một hiện tượng xã hội lệch chuẩn, nhưng chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn, ở các trung tâm thương mại và dịch vụ.... Điều đó được khẳng định là dễ nhận thấy; nó đã gây bối rối cho không ít người từ các vùng quê khi họ tới các thành phố lớn như Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh. còn tại các vùng nông thôn, với lối sống “trọng tình”, tính cộng đồng và trách nhiệm lẫn nhau cao hơn, vô cảm ít có cơ hội và sẽ không có đất để len chân và tồn tại;

         Thứ ba, 100% ý kiến khẳng định thái độ vô cảm tập trung chủ yếu ở giới trẻ, đặc biệt là phổ biến ở trẻ vị thành niên trong các gia đình thiếu sự quan tâm của cha mẹ, hoặc gia đình có nhiều thành viên không gương mẫu.... Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Cục phòng chống tội phạm bộ Công an, khi khẳng định rằng 75% tội phạm ở tuổi vị thanh niên có nguyên nhân từ hoàn cảnh gia đình, trong đó tới 49% từ các gia đình thường xuyên có bạo hành; 32% gia đình có bố mẹ li tán; 30% gia đình có bố mẹ nghiện ma túy và 21% gia đình có cha mẹ làm ăn phi pháp...[6]. Trên cơ sở này, các giải pháp giáo dục, đặc biệt là giáo dục gia đình được nhóm tác giả và những người tham gia đặt lên hàng đầu.  

         Thứ tư, 100% ý kiến nhận định rằng hiện tượng vô cảm đang có diễn tiến trầm trọng hơn và đang lan tỏa rộng hơn trong giai đoạn gần đây. Nhiều ý kiến quan ngai rằng vô cảm không chỉ “phá phách” trong cộng đồng, tạo nên các “nạn trộn cướp”,  “nạn bạo hành, sát phạt lẫn nhau”, hay “nạn hàng giả”, đang đe dọa sự an toàn trong cuộc sống của người dân; mà “Vô cảm” đã len lỏi vào các trường học, bệnh viện, công sở... tạo nên “nạn phong bì”, “nạn chạy điểm”, “nạn chạy chức quyền”, “nạn phe cánh”.... Do vậy, các hệ lụy xã hội của nó gây nên cũng có xu hướng đa dạng, đa cấp và nghiêm trọng hơn trước.     

       III. Kiến nghị 

       Công trình có một số đề xuất bước đầu về các kế hoạch khoa học cần triển khai, tiếp tục làm rõ vấn đề này, bên cạnh đó còn là một số kiến nghị cũng là kết quả nghiên cứu của đề tài như sau:     

         1. Đây là một đề tài mới, phức tạp, đề cập đến nhiều vấn đề nhạy cảm trong xã hội, chưa thể đem lại kết quả mong muốn chỉ trong giai đoạn đầu triển khai nghiên cứu như hiện nay.

        Sau khi đã cày vỡ khái niệm và nghiên cứu tổng quan như hiện nay, các tác giả mong muốn vấn đề sẽ được tiếp tục đặt ra ở một vài cách tiếp cận chuyên sâu như sau:

        1) Tiếp cận tâm vật lý (y sinh học) về vô cảm trong các bệnh xã hội ở Việt Nam;

        2) Tiếp cận tâm lý học xã hội của người Việt Nam về vô cảm;

        3) Tiếp cận văn hóa và giá trị truyền thống Việt Nam với vô cảm;

        4) Tiếp cận giáo dục học với hiện tượng vô cảm gia đình và học đường;  

        5) Nghiên cứu vô cảm từ quan điểm phát triển bền vững xã hội và con người; 

         Chỉ từ những tiếp cận chuyên sâu nêu trên, hiện tượng xã hội phức tạp này với những biểu hiện đa dạng của nó mới được nghiên cứu cụ thể ở mức cần thiết.

        2. Nhận thức được tính phức tạp của vấn đề và tránh những dư âm bất lợi trong xã hội. Trong công trình này, nhóm tác giả đã giới hạn đối tượng nghiên cứu là chỉ thực hiện khảo sát trong HS-SV, phụ huynh và những người làm công tác xã hội. Tuy nhiên, trong tương lai, vấn đề cần phải được đưa ra bàn luận rộng rãi trên nhiều diễn đàn xã hội, trong đó một diễn đàn đặc biệt quan trọng là của giới học giả và các nhà hoạch định chính sách, nhằm thu hút sự quan tâm và nguồn vốn ưu tiên cho bình diện văn hóa - xã hội của phát triển.

        3. Bên cạnh các hiện tượng xã hội, mà “vô cảm” chỉ là một trong số đáng quan tâm, trong xã hội vẫn còn biết bao tấm gương sáng từ cuộc sống: hàng triệu con tim tham gia “góp đá xây Trường sa”; cả trăm ngàn những người trẻ tuổi đã tình nguyện hiến máu cứu người bệnh; còn rất nhiều “cô Tấm và ông Bụt” thời hiện đại đang lặng lẽ chia sẻ khó khăn với các em nhỏ tại các cô nhi viện... Và còn hàng ngàn đôi tay đang sẵn sàng nối dài các cơ hội mới cho những đối tượng thiệt thòi. Cần phải đặt hiện tượng vô cảm trong bức tranh đối lập với những giá trị truyền thống nhân văn của dân tộc, thể hiện rõ tương quan bất song hành của hai xu hướng xã hội; qua đó, tôn vinh những tác dụng tích cực của truyền thống đã xây dựng nên “vốn xã hội” tốt đẹp của chúng ta.

        4. Dù đã nhận được hiệu ứng rất ấn tượng của cộng đồng, đề tài vẫn chưa hài lòng với chừng ấy hoạt động của các cá nhân đơn vị được tiếp cận thông tin khoa học. Dù là dã có nhiều phản ứng trên mặt báo, đã có các chương trình truyền hình với nội dung này đã được lên sóng: nạn đinh tặc, nạn hàng giả, bạo lực học đường  hay cách ứng xử với các giá trị lịch sử..., nhưng có lẽ tiếng nói vẫn còn quá mỏng manh khi chưa tạo được sự quan tâm rộng rãi của toàn xã hội. Dù đã có nhiều sáng kiến đề xuất với các hoạt động thiết thực của đoàn thanh niên nhằm ngăn chặn sự lây lan của căn bệnh này, tuy nhiên đó chưa phải là sự hợp lực của cả xã hội. Công trình đề nghị sự quan tâm hơn của tất cả các tổ chúc xã hội và cả hệ thống chính trị quan tâm trong cuộc chiến này. 

Kết luận

          Không chỉ yên tâm dừng lại với một vài kết quả bước đầu, các tác giả công trình sẽ còn tiếp tục nghiên cứu, làm rõ các mối quan hệ và các điều kiện làm gia tăng xu hướng vô cảm trong cộng đồng hiện nay, đồng thời vận dụng những kết quả có được góp phần vào thực tiễn lành mạnh hóa xã hội ta. Chừng nào trong xã hội vẫn còn những đứa trẻ lang thang, vẫn còn những cụ già không nơi nương tựa; chừng nào trong cộng đồng vẫn còn bạo lực, bất công...., có nghĩa là nhiệm vụ của các những người làm công tác nghiên cứu nhằm phát triển xã hội như chúng tôi chưa thể coi là đã hoàn thành và những nghiên cứu xuất phát từ như cầu của thực tiễn xã hội sẽ luôn là cần thiết.



[1] Tham khảo Lyman HM (1881). "History of anaesthesia". Artificial anaesthesia and anaesthetics. New York: William Wood and Company. p. 6. Retrieved 2010-09-13. và History of general anesthesia http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_general_anesthesia

[2] Theo C. Mác & F. Ăngghen.

[3] theo nghiên cứu và cách gọi của Hall & Lindzey, 1953, sau này Alliworth Faris, 1960, được nhìn nhận trên nền tảng của “cái tôi” của truyền thống phương Tây: “cái tôi” là “cái cá nhân” và luôn được tôn trọng những gì thuộc về cá nhân. Đó là “cái tôi” luôn được gắn liền với trách nhiệm xã hội của cá nhân và những cơ chế giám sát thực thi chặt chẽ các trách nhiệm xã hội đó. Hơn nữa, bản thân con người trong xã hội phương Tây cũng ý thức được rất rõ, để đảm bảo được tự do cá nhân, trước hết họ phải hoàn thành trách nhiệm của mình trước xã hội.

 

[4] các báo là: Đời sống & Pháp luật, Pháp luật & xã hội, Hôn nhân pháp luật, Pháp luật & cuộc sống, Pháp luật & thời đại, Bảo vệ pháp luật, Gia đình & xã hội, Tuổi trẻ & đời sống, An ninh thủ đô, An ninh thế giới, Tuổi trẻ, Thanh niên,

[5] Chỉ với tiêu đề Bài văn nghị luận về bệnh vô cảm của em Phan Hoàng Yến trong 035 giây tác giả bài viết này đã tìm được 245 trang web có thông tin về bài nghị luận này

[6] Tham khảo: Trịnh Thị Kim Ngọc. Gia tăng tội phạm ở người chưa thành niên – Một cảnh báo cấp thiết về an ninh con người và phát triển bền vững xã hội ở nước ta. T/c Nghiên cứu Con người. Số 2/ 2013.