AN NINH CON NGƯỜI TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU

Mô tả chi tiết

AN NINH CON NGƯỜI TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

TOÀN CẦU

                                                           

                                                                Trịnh Thị Kim Ngọc

                                             Viện Nghiên cứu Con người, Viện KHXH Việt Nam

Đặt vấn đề

          Chưa bao giờ vấn đề an ninh con người lại được đặt ra cấp thiết với một diện rộng trên quy mô toàn cầu như hiện nay, khi những biến động lớn đang diễn ra trong thời gian đây trong nhiều lĩnh vực: khí hậu, năng lượng, tài chính hay sắc tộc tôn giáo…., đã làm thay đổi về cơ bản diện mạo các nền kinh tế trên thế giới, kéo theo nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng. Đặc biệt, chúng ta đang đứng trước thềm của Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Copenhagen (Đan Mạch) trong tình huống hết sức khẩn cấp, thì mối quan tâm lớn nhất của loài người lúc này đều được tập trung vào sự nỗ lực ứng phó của các quốc gia trước những tác động dài lâu của nó. Báo cáo Phát triển con người 2007/2008 có nhan đề: Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu trong một thế giới ngăn cách, đã gọi BĐKH là một “kẻ hủy diệt dấu mặt” đang tiềm ẩn những “hiểm họa song trùng” đe dọa an ninh con người và sự tồn vong của các nền văn minh trên thế giới trong cả hiện tại và tương lai. 

I. Biến đổi khí hậu trong mối quan hệ với an ninh con người

         Con người là một phần của hệ sinh thái và phụ thuộc vào đó bởi những lợi ích mà nó đem lại như thức ăn, nước uống và nguyên liệu phục vụ cho cuộc sống. Chính vì vậy, từ hàng ngàn năm nay, sự ràng buộc hữu cơ của con người với môi sinh đã được coi là mối quan hệ mang tính bản chất. Mỗi thay đổi của tự nhiên dù là nhỏ và diễn ra chậm chạp đến đâu, đều gây ảnh hưởng tới đời sống và sức khỏe con người. Ngược lại, nếu con người không có những cách ứng xử tôn trọng tự nhiên, thì cái giá phải trả có thể sẽ khôn lường. Nhiều nền văn minh cổ đại giàu giá trị, như: văn minh sông Ấn, thành Troy, văn hóa Harappa, Vương quốc Maya hay Đảo Easter trên Thái Bình Dương…. đã đột ngột biến mất trước sự giận dữ của thiên nhiên, giờ đã trở thành những một bài học sâu sắc cho loài người về sự phụ thuộc lẫn nhau về sinh thái và khả năng quản lý sự phụ thuộc đó của con người. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng, không ở đâu, trong mối quan hệ nào lại tồn tại sự tác động tương hỗ và phụ thuộc lẫn nhau sâu sắc như trong mối quan hệ giữa con người và môi sinh. Trước những nguy cơ của BĐKH hiện nay thì an ninh con người đang bị đe dọa trên quy mô toàn thế giới.     

1.     Biến đổi khí hậu  thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ XXI  

      BĐKH hiện tượng nóng lên của bề mặt trái đất do nng đ các khí nhà kính (CO2, CH4, Nox, CFC) trong khí quyển gia tăng, gây ra suy thoái môi trường làm ng mc ớc biển[1]. Việc bầu khí quyển trái đất nóng lên đã làm băng tan nhanh từ hai cực của trái đất hay từ các đỉnh núi cao và làm nước biển dâng cao cũng như thay đổi mọi chế đ thời tiết: mc nưc biển dâng gây xói l và chìm ngập các vùng đất thấp ven biển, thu hẹp dần diện tích lục địa, nhấn chìm nhiều quốc đảo, cướp đi quê hương bản quán, nhà cửa và tài sản của con người; bão lt, lốc xoáy, sóng thần và triều cường gia ng khắp các vùng ven bin, trong khi sa mc hoá lại tăng cưng nhng vùng nm sâu trong lc đa gây ra những thách thức nghiêm trong cho hoạt động  nông nghiệp và lâm nghiệp; dịch bệnh ở người và vật đều gia tăng do nóng và độ m tăng, các bệnh nhiệt đới lan tràn cả tới c vùng đ cao đe dọa cuộc sống con người. Sự nóng lên toàn cầu đã trở thành một vấn đ i trường đáng quan tâm và những nguy cơ của BĐKH ngày càng trở nên nghiêm trọng. BĐKH đã được đặt ra như một chủ đề cấp bách hàng đầu của thế giới vào năm 2007 – năm LHQ gọi "m khí hậu" toàn cầu nhằm hướng các quốc gia cùng nỗ lực xây dựng kế hoạch ứng phó.  

2. Dự báo của các học giả quốc tế về những nguy cơ và nguyên nhân của BĐKH       

           Các số liệu đo đạc trong nghiên cứu của Ủy Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) báo cáo tại Hội nghị Bali (tháng 12/2007) cho thấy, nhiệt độ trung bình trên bề mặt địa cầu ấm lên gần 10C kể từ 1920 đến 2005, tăng nhanh nhất trong khoảng gần 3 thập kỷ nay. Băng hà vĩnh cửu ở hai đầu địa cực và trên các dãy núi cao của thế giới tan nhanh một cách đáng kinh ngạc. Ở Bắc cực, băng tan ở mức kỷ lục: hơn 110 sông băng vĩnh cửu ở bang Montana (Canada) đã biến mất trong vòng 100 năm qua… Ở châu Âu, ,ượng băng hà tan từ trên các đỉnh núi ở châu Âu trong thời gian từ 1991-2004 đã tăng gấp đôi so với 30 năm trước (1961-1990)[2]…các sông băng sẽ hầu như biến mất khỏi dãy Alpes vào năm 2050 (nếu độ tan chảy duy trì như hiện nay). Cao nguyên Thanh Hải và Tây Tạng của Trung Quốc, được coi là vùng đất rộng lớn và cao nhất thế giới, có bề rộng khoảng 2000 - 2500 km và có độ cao trung bình 4.500 m so với mực nước biển. Thanh Tạng được mệnh danh là "Mái nhà của thế giới" do chứa đựng dãy Himalaya với đỉnh Everest cao nhất thế giới. Ước tính vùng này có trên 36.000 tảng băng, chiếm diện tích 49.873 km2 trong đó 84% băng nằm trên cao nguyên. Tuy nhiên, trong 3 thập niên qua, mức độ tan chảy của băng trên cao nguyên khá lớn, trung bình 131,4 km2 băng biến mất/năm. Với tốc độ băng tan như hiện nay, theo ước tính của các học giả, đến năm 2050 sẽ có thêm 13.000 km2 băng (36% tổng diện tích) tại đây sẽ biến mất.

          Công bố của Viện Nghiên cứu vũ trụ Goddard khẳng định, tốc độ băng tan nhanh hơn dự báo của các nhà khoa học và không có khả năng phục hồi. Thập kỷ 70-80 tốc độ băng tan trung bình chỉ khoảng 0,15%. Tốc độ băng tan chảy ở Greenland trong 1 thập kỷ qua đã tăng gấp 3 lần so với lương tan chảy ở những năm đầu 1990. Còn quan sát từ vệ tinh của nhón nghiên cứu, đứng đầu là Giáo sư Jonathan Bamber (đại học Bristol, Anh, cho thấy: mỗi năm có thêm hơn 273 tỷ tấn nước từ Greenland được đổ ra các đại dương, khiến mực nước biển hàng năm tăng ít nhất là 1mm. Nếu toàn bộ 2,5 triệu tỷ tấn băng ở Greenland tan chảy hết, thì mức nước biển sẽ tăng thêm 7m. Dự báo, với mức nước biển dâng như hiện nay, có thể nhiều vùng ven biển sẽ biến mất trong vòng 5 năm tới. Khoảng 1,2 tỷ người sống ở các vùng ven biển trên thế giới có thể bị mất nhà cửa do mực nước biển dâng[3]. Nếu băng hà ở Nam cực cũng vẫn tiếp tục diễn ra với tộc độ như hiện nay, thì mực nước biển có thể sẽ dâng hơn mức dự báo hiện nay chừng 5m vào vài thập kỷ sau 2100, nhấn chìm phần lớn Bangladesh, Ai cập và London cùng nhiều khu vực khác, trong đó có một phần lãnh thổ của Việt Nam[4]. Nếu nhiệt độ Trái đất tiếp tục tăng, dự báo tới năm 2070 băng hà vĩnh cửu sẽ hoàn toàn tan thành nước và tàu thuyền có thể neo đậu ngay trên Bắc cực. Băng hà biến mất đồng nghĩa với việc Trái đất mất đi một tấm gương khổng lồ phản chiếu ánh sáng trở lại không trung, khiến cho nó phải tiếp nhận nhiều nhiệt lượng hơn từ Mặt trời và làm cho nhiệt độ bầu khí quyển tiếp tục tăng, trở thành mối đe doạ khẩn cấp đối với an ninh và sự thịnh vượng của Trái đất.

            Các học giả quốc tế đã nhất trí khẳng định rằng: Trái đất đang dần nóng lên – đây là hiện tượng không thể tránh khỏi và không thể đảo ngược. Tuy nhiên, khi bàn về nguyên nhân của BĐKH và những dự báo cho tương lai thì vẫn còn có những luận giải khác nhau:  

1)    Loại ý kiến thứ nhất được đại đa số các nhà khoa học thống nhất về mối quan hệ giữa việc gia tăng nhiệt độ bề mặt địa cầu với việc gia tăng hàm lượng các khí thải nhà kính, trong đó có tới 66% là CO2 , là do hoạt động kinh tế-xã hội của con người: do đt các nhiên liệu hóa thạch phục v sản xuất và giao thông, công nghiệp hóa quá nóng trongthế kỷ Đại công nghiệp, tăng dân số quá nhanh ở các nước châu Phi và Nam Á, khai thác cạn kiệt tài nguyên, đặc biệt là nạn phá rừng và các hệ sinh thái biển)… Nguyên nhân này được tính về mức chịu trách nhiệm về tình trạng báo động của nhiệt độ bề mặt trái đất từ 90 đến 99%.

2)  Loại ý kiến thứ hai, mặc dù cũng có nhiều bằng chứng khoa học nhưng ít được tán thành hơn, một mặt, họ vẫn thừa nhận sự gia tăng nhiệt độ bề mặt trái đất là do hiệu ứng nhà kính, mặt khác, họ lại cho rằng mức độ tác động của các khí thải nhân tạo do việc tăng trưởng kinh tế không quá trầm trọng như hiện nay. Nhiều bằng chứng của khoa học trái đất đã chỉ ra rằng, Trái đất nóng lên và lạnh đi là một hiện tượng tự nhiên có tính chu kỳ đã từng xảy ra trong sự hình thành trái đất, tạo nên những kỷ băng hàkỷ băng gian hàng triệu năm trong lịch sử cùng với những hiện tượng biển tiếnbiển lùi (biển thoái)[5]. Bằng chứng trên cũng đã góp phần làm sáng tỏ được sự tồn tại của hàng đống vỏ sò lớn được các nhà khảo cổ Pháp tìm thấy trên các đỉnh núi miền Trung, thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh. Hiện tượng đó được giải thích rằng, cũng đã có thời kỳ biển tiến trong lịch sử, khi nước biển đã rất dâng cao đến tận các dãy núi cao dọc biên giới Việt – Lào. Những người Việt cổ đã từng sinh sống bằng các loại hải sản và để lại những đống vỏ sò lớn trên đỉnh núi[6]. Giai đoạn hiện nay cũng đang nằm trong chu kỳ ấm lên của Trái đất. Mặc dù có những bằng chứng, tuy nhiên, lấy chu kỳ vận động tự nhiên để giải thích cho hiện tượng gia tăng mạnh nhiệt độ khí quyển như hiện nay thể hiện tính thuyết phục chưa cao.

3. Những đối thoại quốc tế xoay quanh chủ đề BĐKH

            Loài người đang đứng trước một tình thế hết sức khẩn cấp, khi “điểm tràn” – danh giới giữa an toàn và hiểm họa đang đến gần. Nhìn lại 30 năm qua, khi những biểu hiện cực đoan đầu tiên của BĐKH xuất hiện và đã được cảnh báo. Tuy nhiên, các vấn đề của BĐKH dường như đã bị giới lãnh đạo quốc tế lãng quên. Họ dường như coi sự thay đổi trong hệ thống khí hậu toàn cầu đang thầm lặng diễn ra, thuần túy là vấn đề của môi trường. Những nguy cơ của BĐKH không đưc giới o chí tn thế giới cnh o qua các chiến dch truyn thông rộng rãi như các kỳ tranh cử hay ít ra là bằng các quảng cáo tiếp thị…. Nhng tác động của BĐKH, do đó, cũng cứ lng l din ra, nó cũng  không được đ cp tới tn thị trưng tài chính hay trong các kết qu đo lưng về GDP ca các quốc gia trên thế giới. Tại một số diễn đàn quốc tế, Hội nghị thượng đỉnh Trái đất tổ chức tại Johansburg (Nam Phi, 2002) với hơn 20.000 đại biểu tham dự, nhưng không ít đại biểu vẫn hoài nghi về quyết tâm của các quốc gia  trước các vấn đề Môi trường, đói nghèo và phát triển.  

 Ngay cả khi, các nhà khí hậu quốc tế đã đo được hiển nhiên sự gia tăng của nhiệt độ trong bầu khí quyển, đã cảnh báo về hiểm họa đang đến gần, thì trong suốt 30 năm nay tại hàng loạt các diễn đàn quốc tế, các cuộc tranh cãi của giới chính khách, đại diện cho các quốc gia phát triển vẫn còn đang tiếp diễn về trách nhiệm trước những “dấu chân cac-bon” quá sâu của mình, bằng cách cam kết cắt giảm khí thải và hỗ trợ các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ và xuất khẩu cacbon.

    Mặt khác, các nhà khoa học môi trường đã cảnh báo về hiện tượng suy thoái môi trường và bão lụt gia tăng là do sự bùng nổ dân số tại các nước đang phát triển ở châu Phi và Nam Á và nạn phá rừng nghiêm trọng ở đó, đã làm mất diện tích rừng với tốc độ 5%/ thập kỷ. Đại diện các quốc gia đang phát triển ở châu Phi lại cực kỳ phản đối, mặc dù  khoảng 1,3 tỷ dân số (gấp đôi so với cách đây 40 năm) người dân châu Phi đang phải sống trên những khu vực khô cằn, đầm lầy, rừng thoái hóa… thiếu lương thực và thiếu nước, khiến họ đang phải lang thang tìm nơi cư trú, hàng triệu trong họ đang chết đói và chết khát hàng năm. Bởi họ cho rằng, sẽ là bất công bằng nếu đổ trách nhiệm gây ô nhiễm môi trường do việc tăng dân số, tốc độ này dù có cao đến đâu cũng không thể so sánh với những ống khói khổng lồ đang nhả khói ở các nước công nghiệp phát triển, khi thu nhập trung bình của họ đang chênh lệch gấp 37 lần so với thu nhập của 20 nước nghèo ở châu Phi. Sự bất công bằng còn thể hiện trong cam kết bất khả thi bởi người dân châu Phi khó mà bảo tồn được nguồn tài nguyên trong hoàn cảnh đói khát… của họ như hiện nay. Trong khi đó, các nước giàu chỉ cần thống nhất với biện pháp khiêm tốn là cam kết cắt giảm khí thải theo Nghị định thư Kyoto?

           Cũng đã 15 năm đã trôi qua k t khi Công ước Khung ca LHQ v BĐKH (UNFCCC) đã đ ra với nhng mc tiêuhành động đa phương, nhằm n đnh nồng đ các khí nhà nh trong khí quyển để có thể đẩy lùi giới hạn nguy hiểm…, tuy nhiên trên các diễn đàn thế giới sự đồng thuận vẫn diễn ra hết sức chậm chạp. Những trận bão tố, lốc cuốn, lũ lụt, hạn hán…, cũng như nhiều hiện tượng cực đoan khác của khí hậu ngày càng diễn ra khốc liệt và thường xuyên hơn, hàng năm cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trên thế giới, đẩy hàng triu ngưi nghèo nht các nước đang phát triển tới những thảm họa: đói khát, bệnh tật và vô gia cư bản quán…tới một đường cùng vô vọng [7].

Trên thực tế, như một tất yếu không thể tránh khỏi, BĐKH có khả năng khuynh đảo nhiều vùng rộng lớn trên địa cầu, nó cũng là hiểm họa cả với các nước giàu. Vì vậy, nếu tất cả các quốc gia trên thế giới không đồng lòng thống nhất các giải pháp ứng phó và ngăn chặn kịp thời hiện tượng khí quyển nóng lên, thì toàn nhân loại đang đứng trước hiểm họa khôn lường. Ngài Al Gore, nguyên Phó Tổng thống Hoa Kỳ, người đạt Giải Nobel Hòa bình năm 2007, cũng đã khẳng định: BĐKH là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất mà nền văn minh nhân loại từng đối mặt từ trước đến nay, là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI đã và đang tước đoạt dần những thành quả của PTCN mà thế giới đã phải nỗ lực vượt bậc mới có được.

             Những thách thức của BĐKH là vô cùng cấp bách, đặt ra cho toàn nhân loại lúc này không phải để tranh cãi ai là thủ phạm chính của hiểm họa này, mà cần hướng tới một mục tiêu cao hơn đó là việc đảm bảo các quyền cơ bản của con người: được sống khỏe mạnh, được ăn no, được học hành và được mưu cầu hạnh phúc…. Để đảm bảo được những quyền hiển nhiên đó, vấn đề an ninh con người phải được đặt ra một cách nghiêm túc, cho dù có thể khác nhau về dân tộc, thể chế hay tôn giáo.             

II. An ninh con người trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu

             Trước đây, khi nói đến an ninh, theo truyền thống người ta nghĩ ngay đến vấn đề an ninh quốc gia và chủ quyền lãnh thổ. An ninh phi truyền thống đang đề cập đến là một vấn đề mới nổi lên, mang tính toàn cầu – gọi là an ninh con người (Human secuirity). Vấn đề đã được đề cập toàn diện trong HDR (1994) của UNDP. Đây là một khái niệm lớn, bao gồm 2 khía cạnh chính: 1) an toàn trước các hiểm họa như đói khát, bệnh tật và sự áp bức; 2) con người được bảo vệ trước những biến động bất thường, gây đổ vỡ, tổn thương hoặc có hại đối với cuộc sống hằng ngày của họ, cho dù trong gia đình hay tại cộng đồng[8].

          Nếu như, PTCN là việc mở rộng cơ hội lựa chọn của con người, thì An ninh con người (ANCN) đồng nghĩa với việc người dân có thể thực hiện các lựa chọn đó một cách tự do và an toàn; họ hoàn toàn có thể tin tưởng rằng những cơ hội mà họ có ngày hôm nay sẽ không bị mất đi trong tương lai. Cựu Tổng Thư ký LHQ Kophi Annan đã từng nhấn mạnh: ANCN không tách rời hòa bình, an ninh và phát triển. Nó không chỉ đơn giản là tình trạng không có xung đột bạo lực, mà còn bao gồm sựu bảo vệ nhân quyền, cách quản lý nhà nước hiệu quả, cơ hội tiếp cận giáo dục và chăm sóc sức khỏe, bảo đảm mỗi cá nhân đều có nhiều cơ hội lựa chọn để phát huy được hết năng lực sẵn có của mình [9]. Phù hợp với cách lý giải trên, UNDP xác định, 7 lĩnh vực cơ bản cấu thành ANCN, đó là: 1) An ninh kinh tế; 2) ) An ninh lương thực; 3) ) An ninh sức khoẻ; 4) ) An ninh cá nhân; 5) ) An ninh môi trường (hay an ninh sinh thái); 6) ) An ninh văn hoá và cộng đồng; và 7) ) An ninh chính trị[10].  Trong trường hợp này, BĐKH không chỉ là vấn đề của an ninh sinh thái, mà nó đe dọa cuộc sống con người về mọi mặt.  

1. BĐKH đe dọa an ninh kinh tế

         Những hệ lụy của BĐKH với cường độ mạnh hơn và tần xuất thường xuyên hơn, đã trở thành mối đe dọa lớn đến đời sống kinh tế của hàng triệu con người, đặc biệt, là người nghèo ở các nước đang phát triển. Châu Phi là nơi vốn đã đông dân có tới trên 1 tỷ người, bằng 1/5 dân số thế giới, BĐKH đã làm thay đi quy lut thi tiết: hạn hán khốc liệt kéo dài và bão lụt bất thường đã cướp đi nguồn thu nhập và việc làm trên đất đai của người dân ở đây, đất khô nẻ, mùa màng tht bát khiến hàng triệu dân lâm vào cnh thiếu đói, hàng triệu người khác trở thành những tỵ nạn môi trường, bão lụt ập đến thường cuốn đi tất cả nhà cửa, tài sản và lương thực của họ, khiến những người nghèo ở đây đã nghèo lại càng bị bần cùng hóa. Đúng như HDR 2007/2008 đã nhận định: Nếu thế giới không gii quyết được vn đ BĐKH thì 40% dân nghèo nht trên thế gii - khong 2,6 t người - s đứng trước mt tương lai vô vọng[11].